28- NHỮNG ĐIỀU NGƯỜI CƯ SĨ CẦN HIỂU
Hôm nay có
duyên mấy con gặp Thầy lần nữa, Thầy thấy trước khi gặp Thầy mà được đọc sách
Thầy, mấy con nghiên cứu sách Thầy… Mục đích của Thầy là viết sách là dựa vào
kinh sách Nguyên Thủy cái lời dạy của đức Phật Thích Ca từ kinh sách mà do Hòa
thượng Minh Châu đã dịch ra Việt Ngữ.
Cho nên Thầy
dựa vào đó mà Thầy triển khai những kinh sách đó qua cái kinh nghiệm tu hành của
Thầy. Cho nên khi mà đọc sách của Thầy mà triển khai kinh sách của đức Phật -
kinh sách Nguyên Thủy, thì mấy con đọc rất là dễ hiểu, bởi vì trong kinh sách
Nguyên Thủy nó có những cái từ mà mấy con rất khó hiểu. Thí dụ như những cái từ "vô
lậu" mấy con không hiểu vô lậu cái nghĩa là cái gì? Rồi những cái
từ "tầm tứ", rồi những cái từ "tác ý",
những cái từ đó thì khi mà đọc kinh sách Thầy, Thầy chú thích những cái từ đó
nó làm cho mình dễ hiểu.
Thí dụ như
nói vô lậu là không còn đau khổ, không còn đau khổ cả thân và tâm, còn nói hữu
lậu là có đau khổ. Tâm đau khổ là tâm giận hờn, phiền não đó là đau khổ.
Còn thân
đau khổ là bệnh đau chỗ này, đau chỗ khác là đau khổ, mà danh từ trong kinh gọi là hữu lậu
có đau khổ, hữu là có, mà lậu là đau khổ. Đó thì những cái đó thì hầu như mấy
con nghiên cứu ở trong kinh sách của Thầy viết ra, rồi Thầy giải thích nó rõ, rồi
những cái pháp thực hành ở trong kinh sách. Nếu mà không có kinh nghiệm thì
mình không biết đâu mà thực hành. Thầy giảng dạy nó rất rõ. nó làm cho chúng ta
hiểu được cách thực hành. Đơn giản, dễ dàng, không có khó khăn.
Khi nghiên cứu
kinh sách của Thầy rồi đó, mới thấy rằng đức Phật dạy mình những cái điều thiết
thực, không có mơ hồ; không có mê tín; không có dị đoan. Do đó nhắm vào cái sự
đau khổ của chúng ta mà tu tập để làm chủ bốn sự đau khổ: sanh, già, bệnh, chết.
Cho nên
trong cái thời đức Phật có người hỏi thế giới này thường hằng, thế giới này là
vô thường hay hoặc là có linh hồn hay không linh hồn? Thì đức Phật không có trả
lời, mà đức Phật nói hiện giờ chúng ta là những con người đang bị mũi tên thuốc
độc, hãy nhổ mũi tên đó ra, rồi trị những cái độc đó đi để chúng ta thoát khổ
thôi.
(2:27)Còn
bây giờ lý luận, có hay không có điều đó làm cho chúng ta mất thì giờ vô ích,
mà trong khi chúng ta là những người đang bị đau khổ. Đó là cái thiết thực của
đạo Phật. Cho nên Thầy nghĩ rằng trong cái giai đoạn của người cư sĩ như mấy
con còn đang ở trong gia đình, thì phải lo bổn phận đạo đức trách nhiệm gia
đình; phải lo cho con cái của mình; phải lo cho vợ con của mình đầy đủ không có
thiếu hụt, không có đói khổ để chúng ta làm tròn bổn phận của một con người.
Thì quý Phật
tử nên học cái đạo đức của đạo Phật sống không làm khổ mình, khổ người, tức là
đạo đức nhân bản, mà đạo đức nhân bản thì nó nằm gói gọn ở trong năm cái giới
luật của Phật là Ngũ Giới.
- Giới thứ nhất: Cấm không sát sanh.
- Giới thứ hai: Cấm không tham lam, trộm cắp.
- Giới thứ ba: Cấm không tà dâm.
- Giới thứ tư: Cấm không nói dối.
- Giới thứ năm: Cấm không uống rượu.
Năm cái
giới này tức là năm cái Đức.
1.
Cái
đức thứ nhất: Là cấm không sát sanh, tức là Đức Hiếu Sinh, cái lòng thương yêu
của chúng ta.
2.
Cái
đức thứ hai: Là đức từ bỏ không tham lam, không trộm cắp, đó là mình từ bỏ,
buông xả.
3.
Cái
đức thứ ba: Là cái Đức Chung Thủy, không tà dâm đó là Đức Chung Thủy.
4.
Cái
đức thứ tư: Là Đức Thành Thật không nói dối.
5.
Còn
cái đức thứ năm: là Đức Minh Mẫn, mình không hút thuốc lá, không uống rượu,
không cà phê nghiện ngập, không thuốc phiện, thì (từ bỏ) tất cả những cái đó là
người phải sáng suốt, minh mẫn. Cho nên chúng ta không đem những cái đó vào
thân, để trở thành bệnh tật.
Người cư sĩ
sống ở trong gia đình của mình mà giữ gìn Năm giới là Thầy thấy đã hạnh phúc rồi;
đã được giải thoát rồi; đã sống được đạo đức rồi, không làm khổ mình, khổ người
đó là hạnh phúc rồi.
Còn khi đi
xa hơn thì chúng ta phải tu tập như thế nào? Mà sống trong gia đình thì chúng
ta có thân (thì) làm sao không bệnh tật. Mà tánh tình của chúng ta thì nó dễ giận
lắm, khi trái ý mình thì mình dễ giận lắm. Thì do đó đức Phật cũng bồi dưỡng
thêm cho chúng ta những cái phương pháp mà chúng ta sống là người cư sĩ ở trong
gia đình, mà tâm chúng ta không giận hờn, không phiền não, có thân bệnh đẩy lui
được bệnh, khỏi tốn tiền thang thuốc, đi bác sĩ.
Đức Phật đã
dạy qua 19 cái đề mục của Định Niệm Hơi Thở, thì có hai cái đề mục dạy cho
chúng ta được cái tâm an ổn và được cái thân an ổn, thì chúng ta hãy rèn luyện,
tập luyện hai cái đề mục này thì rất là dễ dàng tu tập không có khó khăn, nó biến
ra cái sự thực hành rồi. "An tịnh thân hành tôi biết tôi hít vô,
an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra". Đó là mục đích tác ý như vậy
là mục đích tạo thành một cái ý thức lực ở trong thân tâm của chúng ta, nó làm
chúng ta có cái lực ở trong thân tâm. Cho nên bệnh đau tác động vô thân tâm của
chúng ta không được.
Nó phục hồi
cái cơ thể chúng ta luôn luôn khỏe mạnh. Cho nên: "An tịnh thân
hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh thân hành tôi biết tôi thở ra", rồi
mình hít vô thở ra 5 hơi thở, rồi mình tiếp tục tác ý cái câu đó nữa, và cứ như
vậy mình tập trong 30 phút mỗi một buổi tối mình chịu khó mình ngồi tu 30 phút
thôi, không cần tu nhiều. Ngày nào, đêm nào mình cũng chịu khó như vậy mình tu
trong ba tháng, sáu tháng. Sau (một thời gian) mình thấy thân mình hôm nay ít bệnh
tật, tức là nó an ổn được cái thân của mình do cái pháp tu đó.
Không lẽ đức
Phật dạy mình dối mình sao? Mà dối mình sao Thầy làm được? Dối mình sao có một
số người tin tưởng người ta tập tu, thân người ta không bệnh, có người thực hiện
được. Đó là cái kết quả của những người đi trước họ đã làm được thì chắc chắn
mình đi sau mình cũng sẽ làm được những cái điều đó. Do đó nó đem lại sự bình
an cho chính mình, đơn giản có một pháp như vậy.
(6:34) Còn
tâm mình nó dễ giận hờn, buồn phiền, nó lo lắng điều này, thế kia, nhưng mình
biết cách tu tập thì nó vẫn bình thường, nó vẫn an ổn. "An tịnh
tâm hành tôi biết tôi hít vô, an tịnh tâm hành tôi biết tôi thở ra". Rồi
hít vô, thở ra 5 hơi thở, rồi tác ý 5 hơi thở, cứ như vậy mà tu tập trong 30
phút thì thân tâm của mình, cái tâm của mình nó sẽ (an ổn). Người ta nói trái ý
mình, mình sẽ không giận, có những chuyện buồn phiền mình thản nhiên, mình thấy
đó là cái việc tự nhiên nhân quả thôi có gì mà phải lo lắng, tự nhiên nó sáng
suốt; tự nhiên nó bình tĩnh. Nó làm chúng ta rất là thanh thản, tự nhiên nó làm
tâm chúng ta không còn bị lo lắng, bị sợ hãi, buồn phiền.
Đó là cái
phương pháp tập để giúp cho tâm chúng ta rất là bình tĩnh. Vậy chúng ta hãy cố
gắng tập luyện thì cũng sẽ được kết quả tốt, chứ đâu có gì mà khó khăn. Đây là
cái người còn ở trong gia đình.
Còn nếu mà
chúng ta đi sâu hơn như Thầy và các quý thầy đều tu để chúng ta làm chủ được sự
sống chết, muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống một cách rất tự tại
thì chúng ta phải tu tập sâu hơn, từ cái sâu hơn đó như Thầy thường nhắc là một
người muốn tu mà để đi sâu hơn là phải phá sạch hôn trầm, thùy miên vô ký. Phá
sạch hôn trầm thùy miên vô ký, tức là trạng thái lười biếng, trạng thái buồn ngủ.
Một người tu
có cái phương pháp làm cho nó (sáng suốt), chúng ta ngồi từ ngày này qua ngày
khác mà không buồn ngủ. Còn như các Phật tử thì không thể được, mình ngồi mà
không ai nói chuyện hơi nghe nó lặng lặng, cái nó buồn ngủ rồi.
Cho nên vì vậy
đó muốn phá nó thì nó phải có cái phương pháp, cái phương pháp đó gọi là Thân
Hành Niệm. Lấy cái thân hành mình mà tập luyện thì nó sẽ phá cái hôn trầm, thùy
miên đó nó sẽ không còn có buồn ngủ nữa. Vả lại pháp Thân Hành Niệm nó còn phá
luôn những cái tâm mà lăng xăng nghĩ ngợi của mình.
Hiện giờ như
Phật tử ngồi lại thì Phật tử cũng thấy rằng cái tâm mình nó khởi niệm này, niệm
kia nó không bao giờ dừng, nó không bao giờ yên tịnh. Mà muốn dừng yên tịnh thì
như bên Tịnh Độ dạy chúng ta phải Niệm Phật, thất nhựt nhất tâm bảy ngày Niệm
Phật không có loạn, không có niệm nào khác, duy nhất có một niệm Phật. Hoặc là
bên Thiền tông dạy chúng ta biết vọng liền buông, khi có niệm phải buông liền,
buông cho đến khi nó không còn niệm nữa, thì đó là Thiền tông dạy.
Tất cả những
cái phương pháp đó đều là cái phương pháp dạy để tâm chúng ta không niệm. Nhưng
trái lại theo phương pháp của đạo Phật thì dạy chúng ta tu một cái pháp mà tự
nhiên nó không có niệm (không có niệm một cách tự nhiên), chứ không phải ngay
cái chỗ mà ý thức của chúng ta ức chế nó, đừng làm cho nó không có niệm. Cũng
như bây giờ chúng ta cố gắng chúng ta tập trung trong hơi thở ra, hơi thở vô gọi
là sổ tức, tức là đếm hơi thở 1, 2, 3, 4, 5 đến 10 – 100 hơi thở, cố gắng tập
trung trong hơi thở đếm, tức là ức chế ý thức của chúng ta nó không niệm, nhưng
mà bị ức chế.
Còn đằng này
mình tu tập cái pháp Thân Hành Niệm, nó không phải ức chế ý thức của chúng ta,
mà cái hành động đâu chúng ta sẽ chú ý cái hành động đó thôi, rồi tự dưng cái
hành động đó nó giúp cho chúng ta được cái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô
sự một cách tự nhiên. Đó là cái phương pháp tu. Cái phương pháp tu (đó) gọi là
pháp Thân Hành Niệm.
(10:02) Khi
tu tập pháp Thân Hành Niệm đạt được cái tâm bất động, thanh thản, an lạc, vô sự,
ngồi mà không có niệm, không có vọng tưởng, ngồi mà không có hôn trầm thùy
miên, từ sáng tới chiều không có buồn ngủ; từ sáng tới chiều mà không có niệm
gì trong đầu chúng ta hoàn toàn cái tâm thanh thản. Thì bắt đầu bây giờ chúng
ta ở trên cái trạng thái bất động thanh thản đó, thì chúng ta nhìn lại thì thấy
rõ ràng tâm chúng ta đang biết trên bốn chỗ: Thân, thọ, tâm, pháp. Mà trong
kinh Tứ Niệm Xứ đức Phật gọi là trên thân quán thân.
(10:36) Nghĩa
là nó đang biết thọ thân nó đang thở và từ chân đến đầu nó cảm nhận rõ ràng đó
là trên thân quán thân. Từ đó chúng ta coi như một người đứng bên ngoài
để nhìn cách thức nó quán thân mà thôi. Chứ không phải chúng ta dùng trên thân
quán thân để ức chế ý thức của chúng ta.
Sau khi kéo
dài thời gian tới bảy ngày, đúng bảy ngày trong cái trạng thái bất động tâm đó
thì người đó có đủ cái năng lực để làm chủ sự sống chết. Bệnh đau đuổi rất dễ
dàng không còn khó khăn. Thí dụ như cái người mà đạt được ở trong cái trạng
thái bất động tâm đó, bảy ngày bảy đêm, thì cái cơn đau nhức đầu hay đau bụng
hay bất cứ một cái cơn đau nào trên thân họ, họ thản nhiên vô cùng, họ không
làm sao họ thấy đau. Còn chúng ta thì không được, khi đau thì cái biết của
chúng ta, cái ý thức của chúng ra nó sẽ tập trung trong cái đau mà nó thấy cái
đau chứ không thể thấy cái khác được.
Còn cái người
tu đã quen ở trong cái trạng thái bất động tâm đó, thì nó không cần biết cái
đau và cuối cùng thì cái đau không còn đau. Cách thức cái tâm nó lìa ra khỏi
cái thân, nó làm cho cái đau không còn cảm giác, nó lìa ra chứ thật sự ra nó
không lìa, mà nó ở trong một cái trạng thái bất động. Do đó là cái người đó đã
chứng đạo.
Chứng đạo
có nghĩa là cái người đó làm chủ thân của họ, làm chủ đời sống của họ, ai chửi,
ai mắng, hoàn cảnh xảy ra điều gì họ thản nhiên; họ không buồn rầu, lo lắng; họ
không sợ hãi; họ không giận hờn một người nào cả. Họ chỉ có một lòng thương yêu
và tha thứ những người khác tạo cho hoàn cảnh họ khổ đau, chứ họ không ghét,
không oán, không giận, không buồn, làm cho họ khổ, đó là đạo Phật - là cái người tu chứng
đạo.
Chứng đạo Phật
không có nghĩa là kiến tánh thành Phật; chứng đạo Phật không có nghĩa là mình
có hào quang ánh sáng, mình có Thần thông phép tắc; chứng đạo Phật không có
nghĩa là niệm bùa, luyện chú, rồi ngồi kiết già bay lên hư không. Đạo Phật
không có dạy điều đó, mà đạo Phật dạy chúng ta làm chủ.
Bây giờ người
ta chửi không giận. Tâm chúng ta thấy một việc xảy ra, gia đình có người đau
thì lo lắng, thì giờ nó không lo lắng mà nó làm hết bổn phận đối với người bệnh
trong gia đình. Còn thân có đau nhức thì nó đẩy lui cái bệnh đau nhức ra khỏi
thân nó, và thân nó không tốn tiền thang thuốc, đi bác sĩ, đi nhà thương trị bệnh,
nó làm chủ được thân nó. Già thì không yếu, không lụm cụm, không run rẩy, làm
chủ được cái già. Và chết thì muốn chết hồi nào chết, muốn sống hồi nào sống.
Đó là cái mục đích của đạo Phật, mà cái người tu theo đạo Phật đã đạt được.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét